khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Chủ Nhật, 19 tháng 11, 2017

Viết Mướn Ở Bưu Điện- Tác giả Nguyễn Quốc Trụ



1. Truyện Số Một

Trước 1975, tôi là một cán sự kỹ thuật Bưu Điện, ra trường khóa đầu tiên, [hình như là năm 1960], làm việc tại Ty Trung Ương Cơ Xưởng Vô Tu...yến Điện, số 11 đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn, chuyên lo việc sửa chữa máy móc vô tuyến điện từ các đài địa phương gửi về. Lâu lâu, được phái đi các đài để sửa máy tại chỗ, do không thể chuyển về Sài Gòn. Sau hai năm, do biết tiếng Anh tiếng Pháp, tôi được chuyển qua bên quốc tế, làm việc cũng kế bên Ty Trung Ương Cơ Xưởng Vô Tuyến Điện, building số 7 Phan Đình Phùng. Đài Phát Thanh Sài Gòn, tòa nhà số 5. Tôi đã có lần kể về những ngày Mậu Thân, đám biệt động thành chiếm Đài Phát Thanh Sài Gòn, lính Dù được trực thăng đưa tới, từ trên đánh xuống, chung quanh Đài, xe tăng, thiết giáp vây chặt. Đài Vô Tuyến Điện Thoại Quốc Tế, nơi tôi làm việc cũng lọt vào trong vòng đai. Thời gian đó, tôi có làm part time cho một cơ quan thống tấn quốc tế. Thế là tử thủ luôn tại Đài, chuyển hình chiến tranh đi khắp thế giới, cho tới khi trận đánh kết thúc. Khi tiếng súng im hẳn, buổi sáng hôm đó, tôi lò mò hạ sơn [Đài VTĐ ở lầu trên cùng building năm tầng này], xuống tiệm phở 44 Phan Đình Phùng ở phiá bên kia đường, làm một tô điểm tâm, hình ảnh còn đọng lại mãi cho đến bây giờ, là một chiếc rép râu, trên mặt đường phía bên ngoài tiệm phở. Chủ nhân của nó, là một xác người nằm trong nhà để xe, nơi lính Dù kéo vô chất thành đống chờ dọn dẹp, chuyển đi nơi khác, trả nhà để xe lại cho những chiếc xe đạp, xe gắn máy, của nhân viên Đài Phát Thanh Sài Gòn. Nói là nhà để xe, nhưng thực sự chỉ là một khúc lề đường được lợp tôn, chăng kẽm gai, theo kiểu dã chiến. 

Vào những năm sau cùng của miền nam cộng hòa, tôi xin chuyển về làm ngay tại Bưu Điện chính Sài Gòn, phía bên cạnh Vương Cung Thánh Đường. Chuyên lo về kiểm tra tần số vô tuyến điện , và liên lạc với Cơ Quan Viễn Thông Quốc Tế, trụ sở chính tại Genève.


Dài dòng như vậy, để xin thưa một điều, là những phòng ốc, hành lang bên trong Bưu Điện, tôi rất rành rẽ. Văn phòng Tổng Giám Đốc Bưu Điện nằm ở lầu hai, kế ngay bên chiếc đồng hồ lớn. Thời gian ngay sau khi ông Diệm đổ, ông Tổng Giám Đốc Bưu Điện cũ đi theo, ông Điều, thầy dậy Bưu Điện của tôi, lên làm tổng giám đốc, học trò cũ của ông là lũ chúng tôi vẫn thường lên gặp thầy tại đây. Đứa mè nheo xin nhà, đứa xin đi nước ngoài tu nghiệp. Từ đó, theo hành lang có thể đi ra phía sau, và đi ra cổng sau Bưu Điện, nằm trên đường Hai Bà Trưng. Đây là con đường ra vô hàng ngày của nhân viên Bưu Điện.

Sau 1975, tôi đã có lần phải “thoát ra” ra phía cổng sau, bằng con đường này.

Nói rõ hơn, trước 1975, văn phòng của tôi, là ở bên trong Bưu Điện. Sau 1975, văn phòng của tôi, là vỉa hè phía đằng trước Bưu Điện. Cái duyên nợ của tôi với Bưu Điện quả là tuyệt vời. Không có thời gian làm Đài Vô Tuyến Điện Quốc Tế, và nhân đó làm thêm cho hãng tin UPI, tôi không có cơ hội làm quen Châu Văn Nam, một nhiếp ảnh viên của hãng này. Sau 1975, nếu không làm chuyên viên vỉa hè Bưu Điện, tôi không làm sao có cơ hội gặp lại anh, và từ đó, mới có chuyến vượt biên bằng đường bộ, qua Lào, băng qua sông Mekong, tới Thái Lan, vô nhà tù quốc tế Bangkok, vô trại tị nạn, và sau đó, tái định cư Canada, miền “đất lạnh tình nồng”, “miền đất hứa”, miền đất thiên đàng”… như một ông nhà văn Việt Nam cũng tái định cư tại đây đã từng ca ngợi, với một chuỗi tác phẩm có tên như trên.

Trở lại với những năm tháng sống bên vỉa hè phía bên ngoài toà nhà Bưu Điện Sài Gòn. Đây đúng là nhà của cả nhà chúng tôi. Cả hai vợ chồng đều ra đây kiếm sống, nuôi bốn đứa nhỏ; hai đứa lớn, những lúc không tới lớp, thường ra đây phụ bố mẹ, nhất là trong những dịp lễ hội, Giáng Sinh, Tết… Có khi còn đem công việc về nhà làm, thí dụ như những ngày hội, cần hoa giấy, confetti, thế là cả nhà xúm nhau làm, có khi thức suốt đêm. Hay những ngày hè nắng gắt, đứa cháu lớn mở ngay bàn bán nước giải khát kế bên bà mẹ đang cặm cụi viết một bức thư cho khách hàng.

Người khám phá ra vỉa hè Bưu Điện, là bà xã, tức nhà văn Thảo Trần, tác giả một vài truyện ngắn đã từng được bà chủ báo Sài Gòn Nhỏ thương tình cho đăng. Đó là thời gian sau khi tôi đi cải tạo về, không biết làm gì, bà xã một bữa đi đâu về, hớn hở nói, kiếm ra việc làm rồi. Tôi hỏi việc gì. Bà nói, viết điện tín, viết đơn mướn. Nhất là viết điện tín. Tôi trợn ngược con mắt, đã lé lại càng thêm lé, và hỏi lại:

-Viết điện tín? Làm sao cái có cái nghề gì kỳ cục vậy?

Hóa ra là có cái nghề viết điện tín thiệt, ở ngay vỉa hè Bưu Điện.

Thời gian này, đã có nhiều người vượt biển. Con số những người chết trên biển cả chắc là nhiều, nhưng người may mắn tới trại tị nạn, tái định cư đệ tam quốc gia cũng tăng lên. Thư từ, điện tín, rồi thùng quà theo nhau mà về. Gia đình thân nhân nhận xong thùng quà vội vàng chạy ra Bưu Điện, nhờ một ông viết mướn đánh giùm cho một cái điện tín, đã nhận đồ. Với ông viết mướn, ba chữ “đã nhận đồ” đó biến thành một chữ, tính tiền cũng chỉ một chữ, đó là “danhando”.

Bởi vì tiếng Việt đơn vận, nên Bưu Điện cho ghép như vậy. Tôi không nhớ, con số tối đa những mẫu tự được ghép. Nhưng quả là thật tuyệt vời, cái nghề tuyệt vời, nghề ghép chữ, những năm tháng đói khổ như thế đó, nhưng bây giờ nhớ lại, thật là tuyệt vời.

Quả là tuyệt vời, theo cả nghĩa tiếu lâm, tức cười của nó. Do không có dấu, cho dù nếu viết riêng ra, vẫn có thể hiểu theo nhiều cách. Đã có lần, trong phòng tranh của một họa sĩ, đám chúng tôi, khi đó còn là học sinh trung học, đã làm mấy cô gái đỏ mặt trước một bức tranh, vẽ ba người đàn ông, với lời chú không bỏ dấu, và nếu bỏ dấu, thì một trong những nghĩa của nó là như vầy: “Ba Người Nhóm Cãi Lộn”. Bởi vậy, có lần, tôi bị khách hàng mang bức điện đã gửi đi, được bà con của khách hàng ở nước ngoài gửi trả về, với lời chú: Đọc không hiểu gì cả.

Chính vì làm cái nghề ghép chữ đó, mà đám chúng tôi bị nhân viên bảo vệ Bưu Điện làm khó dễ. Có lần tôi bị bắt, dẫn vô chính văn phòng ông giám đốc Bưu Điện thuở nào, bắt ngồi đó, chờ mấy ông công an đến làm việc. Tôi đã men theo hành lang, chuồn ra cổng sau, ra trở lại phiá trước, và tiếp tục hành nghề. Đám bảo vệ không làm sao hiểu nổi, tại làm sao mà cái thằng mắt lé đó lại ra thoát được!
Tổng cộng tôi bị bắt hình như ba lần tất cả


2. Truyện Số Hai


Trước 1975, tôi làm ở… bên trong Bưu Điện. Sau 1975, tôi làm ở… bên ngoài, ở vỉa hè tòa nhà Bưu Điện, kế bên Nhà Thờ... Đức Bà. Viết mướn. Điện tín, thư từ tiếng Anh, tiếng Pháp, và tiếng Việt. Thân chủ đa số là những người có bà con, thân nhân vượt biển, đang ở trại tị nạn, hoặc đã định cư nơi nước ngoài.

 Thời gian này cả Sài Gòn, nói rộng ra, cả nước đang đói. Đám ngụy, lại càng đói. Một lần, một thân chủ tốt bụng cho tôi địa chỉ một nữ tu viện Thiên chúa giáo ở Thái Lan. Ôi, quí giá biết là chừng nào. Viết thư cầu cứu, mấy bà sơ gửi cho một thùng đồ, trị giá gần một cây vàng. Đám viết mướn vỉa hè Bưu Điện chúng tôi cứ thế trao đổi, chuyền cho nhau những địa chỉ tương tự. Tới tai nhà nước.


Chúng tôi được đặc biệt để ý, một phần là vậy: làm nhục nhà nước. Ngoài ra còn nhiều tội khác nữa. Thành phần ăn bám xã hội. Trốn tránh đi vùng Kinh Tế Mới. Khuyến khích nhân dân bỏ nước ra đi. 

 Chả là, trong số những thân chủ, có những người trước đi lính hoặc làm việc cho Pháp, nay làm đơn xin tiền cấp dưỡng, tiền truy lãnh những năm chiến tranh bị gián đoạn, hoặc xin bảo lãnh qua Pháp.


 Sau tới chương trình ODP.


 Lần chót tụi tôi nhận được thư của mấy bà sơ, là những lời ân hận, vì không thể tiếp tục gửi quà cứu trợ. Nhà nước Việt Nam đã gửi thư cho mấy bà, yêu cầu đừng gửi đồ cho từng cá nhân. Hãy gửi tới cơ quan nhà nước. Hãy gửi tới Hội Chữ Thập Đỏ.


Không thể gửi, nhưng chắc chắn mấy bà sơ vẫn không quên cầu nguyện cho gia đình chúng tôi.


Chứng cớ là…

Nhờ viết muớn ở Bưu Điện, tôi gặp lại một anh bạn, trước 1975 làm nhiếp ảnh viên cho một hãng thông tấn Mỹ. Tôi là người gửi những tấm hình chiến trường của anh, và của những nhiếp ảnh viên khác trong hãng, bằng phương pháp vô tuyến viễn ảnh.

Anh tới Bưu Điện, tính gửi hồ sơ ODP qua Bangkok. Thời gian đó, tụi tôi móc nối được với một vài nhân viên Bưu Điện, chỉ để chuyển hồ sơ ODP. Tốn thêm tiền cho thân chủ, lẽ dĩ nhiên, nhưng chắc chắn tới nơi. Những ngày tháng lê la bên vỉa hè, những địa chỉ như văn phòng ODP ở Bangkok, văn phòng Hội Cựu Chiến Binh Pháp ở Paris… là những cần câu cơm của tụi này. Còn những địa danh như Galand, Songkhla (?), Panat Nikhom, hoặc quá xa hơn, những Wesminster CA, Santa Ana… là những khung trời mơ ước của mấy tên viết mướn tụi tôi!

Khung trời mơ ước, ôi chao, xa vời quá! Chuyện trước mắt, mì ăn liền: những thân nhân sau khi lãnh thùng đồ, ghé vội mấy ông viết mướn, đánh giùm tôi cái điện tín: đã nhận đồ. Tôi nhớ một lần, có hai anh chị hớn hở tới "order": viết giùm cái thư, nói kheo khéo giùm: ở bên này em nhớ anh lắm, mau mau bảo lãnh em qua! Tôi cứ nhìn hiện tại, để nói về quá khứ: những ngày anh còn ở bên em; và cứ nhìn tương lai, khi anh và em tái ngộ nơi quê người, theo kiểu hiện tại, của đôi nhân tình.

Bởi vì "nhiệm sở" ngay bên Vương Cung Thánh Đường, những buổi sáng sớm "chợ chưa họp", chúng tôi thường vô hẳn bên trong nhà thờ quỳ cầu nguyện. Buổi trưa, thay vì quì, chúng tôi nằm "ngơi" ngay lối đi phía trước, dưới vòm cung, phía sau tượng Đức Mẹ, hay chạy qua phía bên kia đường, khu nhà ở của mấy ông cha, có bữa ngủ quên tới tận chiều, mấy ông cha lại phải cho người giúp việc ra đánh thức! Đêm Giáng Sinh, làm sao Chúa bỏ quên lũ chúng tôi! Người cũng không quên mấy đứa nhỏ: tụi nó đã sửa soạn lễ Giáng Sinh cùng với mẹ, ngay từ đầu tháng, bằng cách cặm cụi làm côngfetti, không phải để ném lên đầu nhau, mà là để bán cho người dân Sài Gòn, đông nghẹt quảng trường Kennedy, đêm Chúa ra đời. Nếu khát nước, bạn có thể vừa mua côngfetti, vừa uống ly nước trà của bà mẹ chúng, trên chiếc bàn dã chiến, di động chung quanh tượng Đức Mẹ, có khi tới tận Nhà Hát Lớn trên đường Tự Do.

Trong không khí hân hoan "cả nước đang sửa soạn làm lễ kỷ niệm Mười Năm Đại Thắng Mùa Xuân 1985", tôi gặp lại anh bạn Ng.

Trong chiến tranh Việt Nam, thời gian làm cho cơ quan báo chí Nhật (Asahi Shinbum), anh đã từng vào chiến khu chứng kiến cảnh Việt Cộng thả ba tù binh Mỹ, trong có một Mỹ đen, tại Bến Kéo, Trà Xim (Củ Chi). Đây là lần thả tù binh đầu tiên. Chuyện xẩy ra trước ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng, vì vậy anh bị rút thẻ báo chí Mỹ, MACVI. Anh cũng là người đầu tiên theo người Mỹ đổ quân tại Quảng Trị, từ chiến hạm Okinawa thuộc Đệ Thất Hạm Đội, vào năm 1967. Phóng viên đầu tiên về Châu Đốc, tham gia chiến dịch đổ quân Trà Keo, giải cứu thường dân ở Kampuchia. Đã từng phỏng vấn tướng Đỗ Cao Trí tại Sawy Riêng. Tất cả những sự kiện trên, là do anh kể cho tôi nghe. Quan trọng nhất, anh nhấn mạnh với tôi, là hai chữ "đầu tiên".

Tôi quen anh những ngày anh bỏ tờ báo Nhật, qua làm cho thông tấn xã UPI. Gốc "chệt", người nhỏ thó, tóc xoắn tít. Có lần trong lúc hơi ngà ngà, anh tỏ ra tự hào, về mấy ‘quí tướng’ của anh. Anh chỉ ân hận, là đã bỏ cuộc quá sớm. Sau Mậu Thân, bà vợ rét quá, bắt ông chồng ở nhà bế con, không cho vác máy hình nữa.

Anh nghĩ rằng, anh vẫn còn nợ chiến tranh một điều gì đó. (Món nợ này, độc giả cho phép tôi nợ lại, vào một dịp khác sẽ nói rõ hơn.)

Nhờ vậy, mà có chuyến vượt biển tại bãi biển Vàm Láng, Gò Công vào đúng đêm ông Táo cưỡi cá chép lên chầu Trời.

Trên một số báo Văn, tôi đã viết về chuyến đi này, và cái cảnh tượng bi hài: trong đêm tối, ghe gặp bão ngay bên ngoài cửa biển Vũng Tầu; một anh chàng thanh niên đã lầm tôi với người yêu của anh, và cứ thế vò đầu vò tóc "người yêu", lảm nhảm những lời cuối cho cuộc tình, cho một tương lai tươi sáng ở nơi xứ người…

Sau khi ra tù, anh bạn tôi lại tìm cách đi nữa. Nhờ vậy, có chuyến du lịch Bangkok.

Hai vợ chồng tôi tới Bangkok ngày 19 tháng Năm, năm 1990. Đúng ngày sinh của ông Hồ. Sau này, tôi tăng thêm một ngày, trong lý lịch Cao Uỷ.

Đó là một bữa thứ bẩy. Sau khi đi lang thang trong thành phố tới rã người, trước viễn ảnh một buổi tối thật đen tối, chợt nhớ tới cái địa chỉ đã từng là cứu tinh những ngày đói rã họng ở quê nhà, tụi này bèn kêu tắc xi, nói "Vạt, vạt" (Vạt, tiếng Thái, có nghĩa là chùa chiền, tu viện). Anh chàng tắc xi người Thái đưa, không phải tới cái địa chỉ mà chẳng ai còn biết đó, mà là nhà thờ St. Francis, tại một khu sang trọng thuộc trung tâm thành phố. Tới sân nhà thờ, nhìn thấy một chiếc xe hơi với hàng chữ tiếng Anh, Cơ quan Cứu Trợ Cao Uỷ Tị Nạn, tôi la thầm trong bụng: Chúa cứu ta rồi!

Vị cha già trụ trì nhà thờ là người Pháp. Ông không dấu vẻ ngạc nhiên, khi nghe gã đàn ông ốm đói, mệt lả, nhưng "thao thao bất tuyệt" xổ ra hàng tràng tiếng Tây, (sau này, nghĩ lại, tôi cũng không thể hiểu nổi tại sao bữa đó, mình lưu loát đến như thế! Nhất là đây là lần đầu tiên, kể từ tháng Tư 1975, tôi mới có dịp "thực tập" tiếng Tây!)

Sau đó, Cha cho trú ngụ tại một căn phòng ở bên trường học, kế ngay bên nhà thờ, do nhà thờ quản lý, bỏ qua tất cả những lời khuyên nên báo cảnh sát để cho nhà thờ khỏi bị liên lụy.

Chúng tôi ở đây hết ngày thứ bẩy và chủ nhật. Sáng thứ hai, Cha đưa tụi này tới cơ quan ODP, nằm bên trong tòa nhà khổng lồ City Bank. Ông trình giấy tờ, yêu cầu được coi hồ sơ ODP của tụi này. Chỉ tới khi đó, Cha mới thực sự tin tưởng, và có thể, hài lòng, vì đã làm đúng ý Chúa!

Cha yêu cầu cho gặp một vị luật sư của ODP. Vị này khuyên, chỉ có mỗi một cách: đưa mấy người này vào đồn cảnh sát. Sau khi hết hạn tù, ông sẽ báo bên Cao Uỷ cho xe "rước’ về trại tị nạn.
Cha đưa tụi này tới một đồn cảnh sát Thái.

Trước khi từ biệt, Cha đã dịch cho tôi nghe những lời cảnh cáo của viên cảnh sát: Tôi có thể bắt Cha, vì tội chứa chấp những người nhập cảnh bất hợp pháp.

Sau đó, Cha còn tới nhà tù thăm tụi này, cho tiền, đưa lại mớ "bản thảo", là mấy cuốn tập ghi vắn tắt một số sự kiện về những ngày ở Đất Phật, và chuyến vượt sông Mekong vào đất Thái của tôi.

Tôi gặp lại Le Carré ở nhà tù Bangkok.

Trong cuộc chiến Việt Nam, vì quá sợ nó, tôi tìm đủ mọi cách để chạy trốn. Một trong những chỗ ẩn núp "tương đối" an toàn, là sách vở. (Ngoài sách vở ra, còn một mê cung khác, an toàn hơn, bởi vì thê thảm hơn, tôi đã tưởng hết lối ra, may nhờ… nhưng thôi để dịp khác…)

Trong sách vở, có truyện trinh thám. Những cuốn tiểu thuyết đen, série noire, với những tác giả như James Hadley Chase, Georges Simenon… và John Le Carré, được coi là "ông vua" của tiểu thuyết gián điệp, với bối cảnh là Cuộc Chiến Lạnh.

Tôi tình cờ khám phá ra ông, nhân bữa ghé tiệm sách Xuân Thu, ở đường Tự Do Sài Gòn, thấy cuốn Gián Điệp Từ Miền Lạnh, bản tiếng Pháp (L’Espion qui venait du froid). Mấy chữ "venait du froid" đập ngay vào mắt. Như thể sợ, mà vẫn tò mò muốn biết, muốn thử! Y hệt nỗi sợ cuộc chiến! Biết chắc chạy trời không khỏi nắng, nhưng vẫn tìm đủ mọi cách để kéo dài thời gian "hoãn dịch". Một cái sợ tiềm ẩn, ma quái, đâu đó từ góc sâu quá khứ… Trong một thoáng, giữa không khí ấm áp của Sài Gòn, tôi như sống lại nỗi buốt giá của một miền đất, của một tuổi thơ, trong khi cuộc chiến đang rình rập, ngay… bên ngoài lề đường!

Chả là, tôi người Bắc, bố mất sớm, mẹ còn trẻ, một nách bốn con, cứ phải gửi hết đứa này đứa nọ ăn nhờ ở đậu nơi bà con bên nội bên ngoại… những chi tiết chẳng liên quan gì tới Gián Điệp Từ Miền Lạnh, nhưng chính là cánh cửa mở vào tiểu thuyết của Le Carré.

Trong ba tháng nằm tại nhà tù quốc tế Bangkok, giữa đủ thứ thành phần (trộm cướp, buôn lậu ma túy, giấy thông hành hết hạn, kháng chiến quân chống nhà cầm quyền Miến Điện, chống nhà nước Cộng Sản Việt Nam…); đủ thứ sắc dân (Anh, Pháp, Ấn Độ, Miến, Mã Lai, Campuchia…), tôi gặp lại Call For The Dead của Le Carré trong mớ đồ lỉnh kỉnh của một anh bạn Mã Lai nằm kế bên. Cuốn sách mỏng, chỉ trên trăm trang, ghi chú tùm lum, nào số điện thoại, nào những con chữ lằng ngoằng…

Tôi đã đọc bản tiếng Pháp, L’appel du mort, nhưng không bắt được cái mạch của nó.

Lần này, cuốn sách bắt được mạch của tôi.

Đúng hơn, lần này thành phố đã…

Như trên đã nói, tôi đọc Le Carré qua bản dịch tiếng Pháp. Lần đọc đầu, tôi chỉ để ý đến cốt truyện, đến cuộc đấu trí giữa hai phe "chính tà’ qua hai nhân vật ở trong đó.

Đây là câu chuyện một nhân viên ngoại giao tự tử, sau khi bị sở cho người điều tra, vì nghi là "thân cộng". Để lại thư tố cáo. Người lãnh đạn, là Smiley, nhân viên được sở cử đi điều tra. "Anh điều cha điều bố thế nào để cho con người ta cảm thấy nhục nhã, mất danh dự đến nỗi phải tự tử để minh oan?"

Trước mắt, ngay sáng sớm hôm sau, Smiley phải tới gặp bà vợ, để thay mặt sở chia buồn. Đang nói chuyện, có điện thoại. Tưởng của Sếp, anh nhắc nghe, nhưng của nữ điện thoại viên bưu điện, do người đã chết tối hôm qua đã dặn, "tám giờ sáng, nhớ đánh thức tôi nhé!"

Smiley tự hỏi: làm sao một người sửa soạn từ giã cõi đời, lại nhờ người đánh thức?

Hoá ra là bà vợ mới là gián điệp nằm vùng. Bồ của bà, một điệp viên Đông Đức. Trong thời gian chiến tranh, anh này là nhân viên của Smiley. Một tay cộng sản thứ thiệt, theo nghĩa, rất tin tưởng chủ nghĩa cộng sản sẽ đưa thiên hạ tới "thái bường"!

Smiley vẫn còn nhớ, cách anh này hẹn gặp nhân viên dưới quyền. Anh thử làm theo, và thành công.

Anh cho hai người gặp nhau tại một rạp hát. Khi nhân viên dưới quyền xin lệnh bắt, Smiley lắc đầu, không có chứng cớ, bắt cũng phải thả ra thôi. Nhưng anh ra lệnh: cứ để yên, sẽ có biến động. Hãy để cô cậu cuống cuồng, thất kinh… quýnh quá thể nào cũng làm một điều gì đó. (Let them bolt, panic, anything… so long as they do ‘something’). Bởi vì theo anh, Dieter, nhân viên cũ của anh, khi gặp cô bồ, khám phá ra bị lừa, sẽ nghĩ rằng phản gián Anh đã biết tất cả.

Vấn đề là: anh ta sẽ hành động như thế nào?

The Last Act, màn chót của vở hát và cũng là màn chót của cuộc đấu trí, Dieter xiết cổ cô bồ, làm như đang ngủ, và rời rạp hát cùng với khán thính giả.

Dieter và Smiley đụng độ tại một cây cầu, giữa sương mù dầy đặc, trên sông Thames. Nhớ lại những năm tháng cùng chống Quốc Xã, Dieter tha chết cho tên bạn đế quốc, và chịu chết thay vì đầu hàng.

Những đoạn đối đáp giữa bà vợ và Smiley, giữa Similey và Mendel, người bạn làm nghề cảnh sát… là những trang đẹp nhất trong truyện:

(Mendel hỏi Smiley):

-Bà ta có phải là cộng sản không?

-Tôi không tin bà ta thích những nhãn hiệu. Tôi tin rằng, bà muốn xây dựng một thế giới có thể sống mà không có tranh chấp… Hoà bình là một từ dơ dáy, hiện nay, có phải không? Tôi nghĩ, bà muốn hoà bình. (I don’t think she liked labels. I think she wanted to help build one society which could live without conflict. Peace is a dirty word now, isn’t it? I think she wanted peace.)

-Còn Dieter?

-Trời biết Dieter muốn gì. Thanh danh, tôi nghĩ vậy. Và một thế giới xã hội chủ nghĩa. Smiley nhún vai. "Họ mơ tưởng hoà bình và tự do. Và bây giờ, họ là những tên sát nhân, những tên gián điệp."

-Trời đất!

Smiley im lặng một lát:

-Tôi không hy vọng bạn hiểu. Bạn chỉ nhìn thấy tận cùng của anh ta. Tôi đã nhìn thấy khởi đầu. Anh ta là một trong những người xây dựng thế giới. Những người tưởng là xây dựng, nhưng thật ra là hủy diệt.

Lần đọc đầu, tôi chỉ để ý đến những màn giật gân, những câu đối đáp nẩy lửa như trên.

Lần thứ nhì, một chi tiết, đúng ra là một "cụm từ", trong một câu văn, đập thẳng vào mắt tôi.

Bạn không thể tưởng tượng, khi nằm tại nhà tù quốc tế Bangkok, tôi đã nhớ Sài Gòn tới mức nào. Và cái cụm từ ở trên, nó "liên quan" tới… Sài Gòn!

Câu văn ở chương hai. Chương này tả cảnh tượng Smiley đang đêm bị sếp dựng dậy, bắt phải tới sở trình diện. Ngồi trên xe tắc xi, anh cứ nghĩ, mình vẫn còn đang ngủ trên giường nệm ấm áp, đây chỉ là hồn ma của mình đang run rẩy giữa thành phố London:

"Trong tắc xi ông cảm thấy an toàn. An toàn và ấm áp. Cái ấm là món hàng chui, tuồn từ chiếc giường, được tích trữ nhằm chống lại đêm tháng Giêng ẩm ướt. An toàn, vì không thực: đây là hồn ma của mình đang lang thang trên đường phố Luân Đôn…"(He felt safe in the taxi. Safe and warm. The warmth was contraband, smuggled from his bed and hoarded against the wet January night. Safe because unreal: it was his ghost that ranged the London streets….)

Những từ safe, unreal…như từ cuộc chạy trốn quê hương trỗi dậy, gây trạng thái chập chờn nửa thức nửa ngủ. An toàn ở trong một nhà tù, cách xa nhà tù quê hương. Không thực, vì chung quanh là cả một khối hỗn độn người ngợm lạ hoắc… cứ thế, một đoạn văn ở trong tôi lập đi lập lại, theo cùng với những con chữ: Trong những đêm chập chờn mất ngủ… hồn ma… his ghost, không, không, đây là hồn ma của chính mình đang lang thang ở Sài Gòn… không, không, không phải hồn ma của mình, mà là… hồn thiêng, hồn thiêng của thành phố đang trỗi dậy… thế là tôi ráp lại: "Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những đường phố cũ…". Tới đó tịt luôn.

Phải tới khi ra nhà tù, vào trại tị nạn, mãi mãi sau đó, tôi mới kết thúc nổi câu văn:

"Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng đây là hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể."

Một thành phố mà tôi đã chết ở trong, nay sống lại, chỉ để kể về nó…

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét